Chương 3
Như vậy, Phạm Sinh đã gặp được những người đồng chí hướng của mình
Như vậy, Phạm Sinh đã gặp được những người đồng chí hướng của mình, các sư huynh Phạm Tổ Thu và Phạm Ngưu Tất, hai gia tướng thân tín của quan thượng tướng Khát Chân và quan Thái bảo Nguyên Hàng. Trên vai anh bây giờ khoác ba gánh nặng thù hận: nợ nước, thù của thầy và thù nhà.
Khi Phạm vẽ xong bốn bức tranh tứ phụ dâng lên Nghệ Hoàng, ông vua già khen ngợi, ban tặng lụa và tiền bạc. Thượng tướng biết Phạm Sinh là học trò cụ Sư Tề nên có ý định tiến cử. Chàng nho sinh tạ ơn:
- Kẻ tiện dân rất cảm kích lòng rộng rãi giúp đỡ của ngài, song le vốn là kẻ ưa bay nhảy, chí chưa muốn trụ lại một nơi.. Vả lại ngày nay, Quý Ly chuyên quyền lại thâm độc. Tụ lại một nơi không có lợi. Tiểu nhân không muốn ông ta nhận ra chân tướng của mình. Tiểu nhân muốn là kẻ chìm trong bóng tối... nhưng sẽ hết lòng phụng sự ngài.
Quan Thái bảo Nguyên Hàng nghe tiếng cũng muốn thu dụng làm người tâm phúc. Ngưu Tất nói riêng với ông:
- Trước khi chết, sư phụ tôi có gửi cho tôi một lá thư nói về người sư đệ này. Thầy tôi bảo Phạm Sinh có tài lại có chí. Thu nạp được là điều tốt. Tôi đã bảo: nếu đệ không muốn ở dinh thượng tướng, thì có thể sang dinh quan Thái bảo. Chú ấy cười nói: “Đệ có cái lợi hơn các huynh, Quý Ly chẳng biết đệ là ai, đệ sẽ tìm hết cách để vào bên cạnh Quý Ly”
Quan Thái bảo gật gù:
- Nếu đã có ý ấy còn gì bằng. Làm được như vậy sẽ có lợi gấp nhiều lần. Ta không ngờ trong thiên hạ lại có người tài trí đến như vậy. Mình cũng phải tìm hết cách giúp anh ta.
Vậy là Phạm Sinh đã lộ ra ý định đến gần Quý Ly. Thực ra, tâm hồn anh đầy mâu thuẫn. Chuyện anh là con ông thày chùa nổi loạn Phạm Sư Ôn anh không hở cho ai biết. Hồi anh gặp cha ở lộ Quốc Oai, ông thày chùa nói với Phạm:
- Nhà Trần mục ruỗng rồi. Khắp nơi nhung nhúc bọn tham quan ô lại. Ngôi trời chẳng phải của riêng ai. Quý Ly định cướp ngôi cũng là lẽ thường. Chỉ tiếc rằng ông ta là người tàn nhẫn. Phải diệt ông ta nhưng cũng phải diệt nhà Trần.
Như vậy, mình sẽ đi chung với họ một quãng đường
- Phạm thầm nghĩ - Diệt xong Quý Ly chắc phải chia tay. Đến lúc đó chẳng biết rồi sẽ ra sao. Mục đích của họ chỉ là giữ lại ngôi báu cho nhà Trần.
Sau đó, Phạm Sinh lại quay về ngôi chùa đổ. Ngưu Tất và Tổ Thu trước kia làm tướng trong đội quân của Nguyễn Đa Phương, ngoài phận thủ túc, còn là sư đệ của Phương. Trong trận đánh Lương Giang Thanh Hoá, Quý Ly thua. Đa Phương đem đội quân Thánh Dực rút lui. Đa Phương cậy có công bảo vệ được lực lượng, sinh lòng kiêu ngạo, chê bai Quý Ly, nên bị thái sư giết. Lúc ấy, Khát Chân lên nắm quân thắng được Chế Bồng Nga, xoay chuyển được tình thế. Ngưu Tất và Tổ Thu tham gia trận đánh, vì vậy chuyển sang làm gia tướng tâm phúc của quan Thái bảo và thượng tướng. Cũng may, Quý Ly chỉ giết Nguyễn Đa Phương mà không cho rằng Phương còn có những người thân tín, nhờ đó hai người thoát chết.
Cũng từ đó, hai người căm thù Quý Ly đến tận xương tuỷ, nhất là từ khi được ở gần hai vị đại thần, tinh thần trung quân của Trần Khát Chân và Trần Nguyên Hàng, lòng căm thù ấy càng sâu sắc. Họ sẵn sàng xả thân vì nhà Trần.
Cứ độ một tuần trăng, họ lại mặc giả làm người đánh cá. áo rách nón mê, bơi thuyền trên Đại Hồ, đêm xuống mới lẻn vào đầm Vạc đến ngồi chùa đổ liên lạc với Phạm Sinh. Họ muốn truyền vào trong lòng người sư đệ trẻ tuổi lòng căm hận ngút trời của họ. Ngưu Tất nói:
- Quý Ly chẳng khác loài chó lợn. Đối với vua thì lăm le tiếm ngôi, đó là tội bất trung. Đối với thầy, cụ Sư Tề chẳng khác gì cha thế mà cũng tìm cách săn đuổi, đó là tội bất hiếu. Đối với Đa Phương đã nhận làm em mà cũng nỡ đang tâm giết chết, đó là tội bất nghĩa. Tàn tặc nào bằng! Trời đất cũng phải nghiến răng căm hận.
Hai người còn luôn thông tin cho Phạm Sinh biết tình hình triều chính, cho chàng đọc những bài viết phản đối Quý Ly như bài Phản Minh Đạo của Đoàn Xuân Lôi, tờ tấu ngăn việc dời đô của Sử Văn Hoa. Hôm ấy, họ mang đến cho chàng bài biểu của một tôn thất nhà Trần sau trốn sang nhà Minh xin giúp đỡ.
Cáo nạn biểu
Hạ thần là Trần Thiêm Bình cháu quan tư đồ Trần Nguyên Đĩnh đã hầu hạ vua Trần từ bé, làm quan đến hàm tứ phẩm, sau đó giúp việc cho quan tư đồ. Năm Kỷ Tỵ, đời Hồng Võ, sau khi Võ Tiết Hầu Trần Khát Chân diệt giặc Chế Bồng Nga, cha con tặc thần Lê Quý Ly âm mưu cướp ngôi đã vu oan giết hại tôn thất nhà Trần: quan tư đồ Trần Đĩnh, quan thiếu bảo Trần Tôn, sau đó là Trang Định Vương Trần Ngạc. Những bậc trung lương bị giết kể có hàng trăm. Anh em vợ con thần cũng đều bị giết hại, lại sai người đuổi bắt thần định chém đầu muối xác.
Thần phải thay hình đổi dạng, trốn lủi trong dân gian, ẩn mình trong hang núi, lưu lạc sang nước Lão qua, tìm mọi cách tới nơi cửa khuyết để phơi bày gan ruột. Phải lặn lội cực khổ mấy năm ròng mới trông thấy mặt trời.
Thần trộm nghĩ Lê Quý Ly là con của cố kinh lược sử Lê Quốc Kỳ, đời đời ăn lộc nhà Trần, thế mà một khi đắc ý đã manh tâm thoán đoạt. Nay hắn đã phế truất Trần Thuận Tôn là con rể, đưa Trần An cháu ngoại y lên ngai vàng, để dễ bề làm việc đại nghịch, không thèm kính nể gì mệnh lệnh của thiên triều, khiến cho các bậc trung thần nghĩa sĩ phải đau lòng nhức óc.
Lê Quý Ly đang dời đô. Nhà Trần sắp mất.
Mong Hoàng đế cử đội quân thăm dân, phạt tội, với danh nghĩa giúp dòng dõi sắp đứt quét sạch bọn gian hùng, thì thần đây dù chết cũng không nát.
Thần nguyện bắt chước lòng trung của Thân Bao Tư quỳ kêu xin dưới cửa khuyết, mong Hoàng đế rủ lòng xem xét.
Chàng nho sinh đọc xong bài biểu cứ ngồi lặng im. Khó ai biết nổi lòng chàng đang nghĩ gì. Phạm Ngưu Tất nói:
- Tình hình cấp bách lắm rồi. Một nửa triều đình đã vào Tây Đô. Gia quyến quan Thái bảo, và thượng tướng cũng rục rịch rời Thăng Long. Âm mưu thoán đoạt của họ chỉ là nay mai. Các nghĩa sĩ trung thần ở địa vị nào cũng đang làm hết sức mình tận trung cứu nước. Nhà Minh cũng hứa sẽ giúp chúng ta. Tiểu đệ còn nghĩ gì nữa?
Chàng nho sinh cười:
- Đệ cũng đang làm việc của mình đấy chứ. Chỉ có khác, việc của đệ làm phải lặng lẽ. Càng lặng lẽ càng thuận lợi... Và có lẽ còn cần đến sự chậm chạp...
Phải nói, những tin tức, và lòng sốt sắng tận trung với nhà Trần, chí căm thù đối với Quý Ly của Tổ Thu và Ngưu Tất ảnh hưởng đến Phạm Sinh không phải nhỏ. Những tác động ấy cộng với hình ảnh về cái chết của người mẹ, của thầy Sư Tề cộng với tiếng kêu của Sư Ôn trước khi bị trảm quyết: “Nhớ lấy! Hãy trả thừ” làm Phạm Sinh dần dần hình thành trong óc quan niệm: chính Quý Ly là người đã gây ra tất cả mọi chuyện đau thương trên đất Đại Việt. Và bởi vì chỉ trực tiếp gặp gỡ tâm sự với Tổ Thu và Ngưu Tất nên dần dần ngọn lửa bừng bừng trong họ cũng truyền mạnh sang chàng...
Thực ra, Phạm Sinh có một điểm rất khác mà mọi người gần chàng đều không hiểu. Đó là quan niệm về thời gian mau chậm. Người chung quanh đều như hối hả cuống quýt. Người ta bảo xây dựng xong Tây Đô là mọi việc sẽ xấu hẳn đi. Người ta bảo cần diệt Quý Ly ngay, cứ như thể diệt xong con người ấy là mọi việc sẽ lại tốt đẹp. Nhanh chóng sẽ tốt ư? Chậm chạp sẽ hỏng ư? Biết đâu đấy, dòng đời tuy đủng đỉnh nhưng vẫn có cái lý riêng của nó. Nó ẩn ngầm tác động chẳng theo ý ai. Nó cuốn phăng ta cùng trôi với nó, còn ta háo hức theo dòng mà cứ tưởng như chỉ riêng mình nhìn thấy chân trời, nhưng thực ra ta làm vậy chỉ vì cái nghiệp. Ta gánh chịu số phận riêng mình bởi vì ta đã từng gieo mầm ấy...
Nói là đủng đỉnh, nhưng sự thực là sự đủng đỉnh háo hức. Con ếch trông thấy con rắn như bị thôi miên. “Quý Ly và ta, ai là rắn ai là ếch?”. Nói thực lòng, anh rất bị hấp dẫn vì con người độc đáo ấy. Cả xã hội, nhất là những con người như Khát Chân, Ngưu Tất, quan Thái bảo... đều thù hận ông ta. Còn anh, khi đọc xong cuốn Minh Đạo của Quý Ly, Phạm Sinh thấy bàng hoàng, và hình như anh thấy căm ghét ông ta hơn, đồng thời cũng bị hấp lực của sự táo bạo của ông ta cuốn hút. Nhưng liệu sự căm ghét ấy là cảm nhận của riêng anh, hay chỉ là cái bóng mơ hồ của những ý kiến đương thời? Anh chỉ là một cánh bèo trong cái biển thù hận. Và Phạm Sinh càng bị thu hút hơn, tìm mọi cách đến gần Quý Ly.
Phạm Sinh ngồi bán chữ ở gốc đa Báo Thiên, để ý thấy có một phu nhân cứ cách vài ngày lại đến lễ chùa. Bà đi kiệu sơn nâu, thường mặc áo mầu tối, nhưng dáng vẻ rất nghiêm trang và cao quý. Anh hỏi Ngưu Tất và Tổ Thu, họ cho biết người phụ nữ tôn quý ấy là ai. Phạm Sinh để ra mấy ngày ròng rã mới vẽ xong một bức tranh rất đẹp. Anh treo bức tranh độc nhất ấy lên gốc cây đa.
Người tò mò bâu đến xem. Bức tranh khổ dài vẽ một cành trúc trên cao và những chiếc lá trúc đang rủ xuống, rơi xuống thấp; những chiếc lá quấn quýt lấy nhau, điểm xuyết vào đó là một đôi chim như đang xòe cánh lượn, chúng nô đùa với nhau hay chúng đang tìm cách để nâng những chiếc lá lên ngăn cho chúng chẳng được rời cành.
Có người hỏi mua, nhưng chàng đặt giá quá cao nên không ai mua nổi. Phu nhân áo sẫm màu, một buổi sáng đến lễ, thấy đám đông xúm quanh gốc đa, sai thị tì đến hỏi xem chuyện gì. Thị tì đến, rồi quay về bẩm:
- Dạ, người ta bán tranh, nhưng đòi giá cao lắm.
Phu nhân tò mò bước đến. Đám đông vội rẽ ra.
Phạm Sinh ngẩng lên, thấy phu nhân trạc tuổi sáu mươi, da dẻ trắng xanh, tóc bạc, khuôn mặt trái xoan buồn bã có đôi mắt rất hiền từ. Phu nhân ngắm bức tranh, rồi gật đầu:
- Ta không sành về hoạ, nhưng thấy bức tranh trang nhã. Phu quân ta rất yêu tranh, nhưng phải là tranh đẹp mới được.
Phạm Sinh nói rất tự tin:
- Bẩm phu nhân, nếu là tranh không quý, kẻ hèn mọn này sao dám đặt giá cao?
- Đắt ta cũng mua. Chỉ hiềm không biết phu quân ta có ưng hay không.
Chàng nho sinh lễ phép:
- Kẻ vẽ tranh chỉ cốt gặp được người tri âm. Phu nhân cứ mang bức vẽ về. Nếu tướng công không ưng, kẻ tiểu nhân này tình nguyện sẽ xé bức hoạ, và bẻ bút không làm nghề bán tranh nữa.
Phu nhân cười, trả tiền, rồi mang bức hoạ về nhà. Phu nhân đó chính là công chúa Huy Ninh, vợ thái sư. Bà vẫn thường đến dâng hoa cúng Phật ở tháp Báo Thiên. Bà đều đặn đến chùa đọc kinh sám hối, cầu nguyện cho chồng. Gặp bức hoạ của Phạm Sinh, bà rất ưng. Bà thấy những chiếc lá trúc và đôi chim rất đẹp. Thần tình ở chỗ những chiếc lá trúc vẽ bằng mực đen, nhưng lại trong veo hình như đang ửng nàng. Đã lâu bà không mua quà tặng chồng. Bà đem về, treo bức tranh ở toà hậu đường cung Hoa Lư. Bà ngồi ngắm nghía, càng ngắm càng thấy bức tranh có duyên. Đôi chim xòe cánh rất vui, hình như mắt của chúng cũng mang mầu nắng. Tuy nhiên, bà vẫn phập phồng lo ngại, không biết bức tranh có làm thái sư vui lòng chút nào không?
Thái sư Quý Ly chiều hôm ấy đến thăm vợ. Trông thấy bức tranh trên tường, ông đến gần để ngắm. Công chúa Huy Ninh theo dõi nét mặt của chồng. Ông đến sát, rồi lại lùi ra, nghiêng đầu xem xét, rồi cuối cùng gật đầu làm phu nhân cũng vui theo. Tưởng chỉ đến thế, nhưng ông vẫn đứng nguyên tại chỗ và thốt lên “quái lạ”. Ông lại ngắm bức tranh lần thứ hai, lần này lâu hơn, kỹ lưỡng hơn. Cuối cùng ông à lên một tiếng và hỏi:
- Bà mua tranh này ở đâu?
- Của một nho sinh ở tháp Báo Thiên... Nhưng... Ông đã thấy điều gì trong đó?
- Ở đây có hai điều đặc biệt. Thứ nhất: nét vẽ của người này cũng là nét vẽ bốn bức tranh tứ phụ mà đức Nghệ Hoàng đã ban cho tôi. Thứ hai: điều này thật tài tình... bà hãy nhìn những chiếc là tre đang rơi xuống... theo hai dòng đấy... nhìn kỹ mới thấy chúng xếp thành những chữ. Đúng chưa?
- Dòng thứ nhất thành những chữ gì?
- Thiên... Thụ... Quế... Chà, khéo thật!
- Còn dòng lá thứ hai chắc chắn bà nhận ra ngay là tên bà Nhất Chi Mai... giỏi thật! Người nho sinh này đã biết hai câu đối xưa kia.
Thanh thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng hàn cung lý nhất chi mai.
Anh ta còn nói với bà thế nào nữa?
- Anh ta còn bảo nếu tướng công không thích, anh ta tình nguyện xé tranh và bỏ bút không vẽ nữa.
Thái sư Quý Ly và bà Huy Ninh bỗng nhìn vào mắt nhau, cười to. Đã lâu lắm bà Nhất Chi Mai mới được nghe thấy tiếng cười sảng khoái của chồng, trên gương mặt buồn của bà, cũng đã lâu lắm nét hoa mới rạng rỡ hẳn lên.
Sau đó, phu nhân Nhất Chi Mai ốm rồi nằm liệt giường. Bà ốm mấy tháng liền, không đi chùa được nữa, nhưng không ngày nào bà quên dâng hoa và đọc sám kinh trước tượng phật A Di Đà thờ ngay gian giữa. Sáng hôm ấy, đột nhiên bà thấy trong người dễ chịu. Bà ra ngồi trên chiếc ghế bành. Con gái bà, hoàng hậu Thánh Ngẫu đến thăm mẹ, dâng lên một bó hoa hồng. Bà đã ngồi đúng như pho tượng của bà hiện nay, giơ hai bàn tay ngọc ngà ra phía trước, đẩy bó hoa đỏ ra xa và lắc đầu:
- Ở đây không dùng hoa đỏ. Ta chỉ xin con, sau khi ta mất, hãy hàng ngày thay ta dâng hoa cúng Phật. Có hai cây đại trắng trước cửa nhà ra hoa quanh năm. Hãy hái những bông hoa vừa trắng vừa thơm ấy dâng lên bàn thờ Phật giúp mẹ. Còn bàn thờ mẹ, con chỉ cần nhặt vài bông rụng trên sân rêu đặt lên là đủ...
Ngày hôm ấy, bà đã ra đi vĩnh viễn, sau khi dâng đĩa hoa trắng sở nguyện lên trước bàn thờ Phật A Di Đà và cúi đầu đảnh lễ.