Công chúa Zêlica nói tiếp với tôi:
- Đấy, Haxan à, anh nhìn thấy trước mắt anh cô Calê Cairi thật. Giờ đây ta giả lại cho cô ấy tên của cô và ta lấy lại tên của ta. Ta không muốn cải trang lâu hơn nữa, cũng không muốn che giấu anh tầm quan trọng của hạnh phúc vừa đạt được; để anh thấy tất cả niềm quang vinh khi chiếm đoạt được trái tim một công chúa. Bới anh đặt tình yêu hơn mọi vinh hoa phú quý, ta tin anh sẽ đặc biệt vui thích hơn nữa khi biết rõ một nàng công chúa đã yêu anh.
Tôi vội thưa với công chúa Zêlica, tôi không sao hình dung được hạnh phúc tột cùng của mình. Tôi không hiểu do đâu từ đỉnh cao danh vọng nàng hạ cố cúi xuống tận tôi, và nâng tôi từ chỗ thấp tận cùng lên và ban cho một số phận xứng đáng được các vị quân vương vĩ đại nhất trên đời này ham muốn. Tóm lại, vừa ngạc nhiên vừa thảng thốt vừa sung sướng, tôi còn định tuôn ra nhiều lời dài dòng nữa để bày tỏ lòng biết ơn, thì nàng vội ngắt:
- Anh Haxan à, anh chớ ngạc nhiên điều ta xử sự như vậy với anh. Đối với những người đàn bà trong cung cấm, sự cao sang chẳng có nghĩa lý gì. Chúng ta chẳng ngại ngùng nghe theo tiếng nói của trái tim. Anh khả ái, anh làm hài lòng ta, chừng ấy thôi đủ xứng đáng với điều ta ban cho anh.
Gần suốt đêm hôm ấy nàng và tôi cùng nhau đi dạo trong vườn ngự uyển và chuyện trò thân mật với nhau. Dễ thường chúng tôi vẫn say sưa trò chuyện và để mặt trời lên hai người bị bắt chợt dạo chơi trong vườn, nếu không có cung nữ Calê Cairi luôn theo sát đằng sau, đã để ý thời gian và báo cho chúng tôi biết đến lúc cần ra về. Vậy là chia tay nhau. Trước khi quay gót vào cung, công chúa Zêlica còn nói với tôi: - Tạm biệt, chàng Haxan à. Chàng hãy luôn nghĩ đến em, chúng ta sẽ còn có dịp gặp nhau. Em hứa chẳng bao lâu nữa sẽ có cách bày tỏ cho chàng biết em quý mến chàng đến đâu.
Tôi quỳ xuống trước nàng, cảm tạ một lời hứa thật đáng vui mừng. Sau đó, tôi theo nàng Calê Cairi đi qua những lối quanh co khúc khuỷu như đêm hôm nọ, rồi nàng mở cửa cho tôi ra bên ngoài tường thành của hoàng cung.
Được nàng công chúa cao sang nhất mà mình đang yêu dấu đáp lại tình yêu, và tin vào điều mà nàng vừa hứa, ngày hôm ấy và mấy ngày tiếp sau nữa, người tôi luôn luôn trong tình trạng lâng lâng sảng khoái. Lúc này chính là lúc có thể khẳng định đúng: trên đời có một con người hạnh phúc, ngoại trừ chút náo nức muốn được mau chóng gặp lại nàng Zêlica. Tóm lại, vào lúc tôi đang ở trong tâm trạng hạnh phúc nhất của một người đang yêu và sắp đạt đến đỉnh cao ước vọng của mình, chợt một sự kiện bất ngờ xảy ra làm cho tôi hoàn toàn mất hết hy vọng. Tôi được tin công chúa Zêlica ốm nặng. Và chỉ hai ngày sau đó, loan truyền sắp hoàng cung tin công chúa vừa qua đời. Tôi không sao tin được điều xảy ra, nếu không thấy mọi người trong hoàng cung đều đang chuẩn bị lễ tang. Nhưng hỡi ôi, tự mắt tôi chứng kiến tang lễ đang diễn ra với tất cả mọi chuyện đau buồn trong ấy.
Tất cả các viên hầu cận phục vụ ở mười hai phòng trong hoàng cung được lệnh xếp hàng đi trước tiên, anh nào cũng ở trần từ đầu cho đến thắt lưng. Những người này thì cào cấu cánh tay để bày tỏ nỗi đau, những người khác thì thích lên người mình nhiều dòng chữ tỏ lòng thương tiếc. Đây quả là cơ hội tuyệt vời cho tôi bày tỏ sự nuối tiếc chân thành nhất, hay đúng hơn là nỗi tuyệt vọng của mình. Tôi cào cấu nát thân thể, người tôi chảy máu ròng ròng. Tiếp sau chúng tôi là các sĩ quan bước đi chậm rãi và nghiêm trang. Mỗi người đeo những dải giấy dài mua tận Trung Hoa gắn vào khăn đội đầu và rũ xuống gần sát đất. Trên giấy viết nhiều đoạn trích dẫn Kinh Cô ran, hoặc những vần thơ ngợi ca công chúa Zêlica. Họ vừa tiễn đưa vừa ngâm nga những vần thơ ấy một cách buồn bã và kính trọng. Sau họ là linh cữu công chúa làm bằng gỗ trầm hương, . đặt lên một chiếc kiệu bằng ngà voi do mười hai quan chức quan trọng mang trên vai. Hai mươi vị hoàng tứ họ hàng của đức vua Tamaspơ, mỗi người nắm đầu một sợi dây buộc vào quan tài. Sau đó tất cả các cung nữ trong hoàng cung đưa tiễn. Họ vừa đi vừa khóc than thảm thiết. Khi thi hài nàng công chúa đã được rước vào chính giữa lăng mộ, mọi người đồng thanh hô lên: La tinh illha Allah ( Có nghĩa: Chỉ có một Đấng Thượng đế duy nhất trên đời.) . Tôi không thể chứng kiến phần còn lại của lễ tang. Vì quá đau đớn và mất quá nhiều máu, tôi ngất đi tại chỗ hồi lâu Một sĩ quan vội vàng ra lệnh cho đưa tôi trở về phòng riêng. Mọi người chăm sóc tôi, dùng một loại cao thơm rất đặc biệt xát lên thân mình. Thế là chỉ sau hai ngày, tôi hoàn toàn bình phục sức khoẻ, tuy nhiên nỗi nhớ nàng công chúa làm cho tôi trở thành một người gần như mất trí. Lúc nào tôi cũng nói với mình: "ôi hỡi nàng Zêlica! Thì ra bằng cách từ giã cõi trần, nàng tự giải thoát cho mình khỏi lời đã hứa với tôi? Phải chăng đấy là một dấu hiệu nữa của tình yêu nàng muốn bày tỏ?".
Không thể nào khuây khoả nếu cứ lưu lại thành phố Siara, bây giờ thành .phố này đã trở thành một nơi tôi sao không sao chịu đựng nổi nữa. Ba hôm sau lễ tang công chúa Zêlica, tôi bí mật trốn ra khỏi hoàng cung nước Ba Tư.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI.
Luôn luôn bị ám ảnh vì nỗi đau xé ruột của mình, suốt đêm hôm ấy tôi bước chân đi mà chẳng hiểu mình đi đến đâu. Sáng sớm hôm sau, dừng lại để nghỉ ngơi chốc lát, tôi nhìn thấy ở gần đó có một anh chàng trẻ tuổi ăn mặc khá dị thường. Chàng ta tiến đến gần tôi, tặng tôi một cành lá non đang cầm trên tay rồi rất lịch sự khẩn khoản mời tôi nhận. Sau đấy, anh chàng đọc những vần thơ Ba Tư ngỏ ý xin tôi làm phúc. Vì trong người tôi lúc này chẳng có đồng nào, tôi không có gì cho anh, anh chàng lại đọc những vần thơ bằng tiếng A Rập. Thấy tôi vẫn không cho đồng tiền nào như anh chờ đợi, anh chàng nói với tôi:
- Người anh em à, tôi không thể tin anh thiếu lòng bác ái, tôi nghĩ hẳn anh không có cách thực hành đấy thôi.
- Anh nghĩ hoàn toàn đúng – tôi đáp – anh nhìn đây, túi tôi không có một đồng xu nhỏ, và hiện tôi chưa biết làm thế nào đây.
Anh chàng kêu lên:
- Ồ, khốn khổ cho người anh em, hoàn cảnh của anh mới tội nghiệp làm sao. Tôi thương hại anh, tôi muốn cứu giúp anh.
Tôi khác ngạc nhiên nghe một con người vừa ngửa tay xin mình của bố thí lại nói chuyện muốn cứu giúp mình. Tôi nghĩ sự cứu giúp anh nói đến đây chẳng qua là những lời cầu nguyện hoặc những lời chúc tốt lành, song anh chàng đã nói tiếp:
- Tôi là một trong những tu sĩ người ta vẫn gọi là fakia (Những người chuyên làm nghê phù phép của Ấn độ). Cho dù chúng tôi sống nhờ của bố thí, chúng tôi chẳng phải không sung túc đâu. Bởi chúng tôi biết cách gợi lên lòng thương xót của người khác với dáng điệu làm ra vẻ buồn rầu và mộ đạo. Đúng là cũng có những vị fakia sống nội tâm rất giản dị, đúng hệt như trang phục bên ngoài của họ. Các vị ấy sống cuộc đời khắc khổ, có khi suốt mười ngày ròng chẳng ăn một miếng. Nhưng cánh này thì chẳng phải giữ gìn khắt khe như họ. Cánh này chẳng thiết đi vào thực chất đạo đức như họ. Chúng tôi chỉ cần giữ đúng bộ dạng đạo đức bên ngoài. Vậy anh có muốn trở thành một đồng nghiệp của chúng tôi không? Tôi vừa tuyển mộ được hai anh chàng ở thành phố Bost đồng ý theo nếu anh nhận lời làm người fakia thứ tư, thì chỉ việc đi theo tôi.
- Tôi không quen làm công việc tu hành như các anh – tôi đáp – tôi e rồi chẳng đâu vào đâu.
- Anh quá lo xa – anh chàng ngắt lời tôi, và nói tiếp – chẳng có khó khăn gì việc tu hành của chúng tôi. Như tôi vừa nói, cánh này chẳng phải những bậc fakia thật sự, tóm lại, chúng tôi chỉ ăn vận áo quần của fakia thôi.
Cho dù anh chàng fakia ấy như đã hứa, giới thiệu với tôi y và hai anh đồng nghiệp y đều sống phóng đãng, tôi vẫn không từ chối kết bạn với họ. Trước hết bởi tôi đang trong tình cảnh thảm thương, hơn nữa, khi còn làm việc hầu cận cho nhà vua, cũng chẳng ai ngăn cấm tôi trong việc kết giao bè bạn. Tôi vừa ngỏ lời tôi chấp nhận điều anh gợi ý, anh chàng fakia dẫn tôi đi luôn về Bost, dọc đường vừa đi vừa xin ăn. Mỗi khi chúng tôi đi qua các thị trấn và làng mạc, dân chúng tự mang ra cho nào quả chà là, nào cơm bánh cùng nhiều loại thức ăn khác nữa. Hễ bắt đầu nghe tiếng lục lạc những người fakia rung lên cùng với tiếng ngỏ lời xin chúng sinh làm phúc, thì những người ngoan đạo vội mang nhiều thức ăn đến dâng các thầy.
Bằng cách kiếm sống ấy, chúng tôi ung dung tới được thành phố Bost. Hai chúng tôi đến một ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô, ở đấy đã có hai anh chàng fakia kia đang ở. Họ rộng mở đôi tay nồng nhiệt đón chúng tôi, ai nấy tỏ ra thích thú về việc tôi quyết định sẽ chia xẻ lối sống cùng với họ. Họ bắt đầu dạy tôi vài đường về các bí quyết của họ, nghĩa là cách làm bộ làm tịch sao cho người ta kính trọng và thương hại. Khi tôi đã thành thạo trong nghệ thuật lừa dối dân chúng, họ cho tôi mặc trang phục y như họ, và ép tôi đi vào các phố đưa những bông hoa hoặc cành lá tươi tặng những người trung hậu, rồi đọc đôi vần thơ và xin của làm phúc. Lần nào, sau mỗi ngày trở về ngôi nhà chung tôi cũng có ít nhiều đồng bạc, nhờ vậy chúng tôi vẫn có thứ chè chén ngon lành.
Hồi ấy tôi còn quá trẻ, và bản chất tôi vốn thích chè chén vui chơi, tôi không có cách nào ngăn mình không làm theo gương xấu của những anh chàng fakia ấy, và thế là bất giác dần dần tôi quên đi hình ảnh nàng công chúa nước Ba Tư. Thật ra thỉnh thoảng hình ảnh của nàng cũng có hiện lên trong đầu óc tôi, khiến tôi buông ra đôi tiếng thở dài. Nhưng đã không nuo6i dưỡng những ký ức buồn thương ấy, tôi lại còn tìm cách huỷ hoại chúng đi. Thỉnh thoảng tôi tự bảo mình “Tại sao cứ nghĩ đến Zêlica, trong khi Zêlica không còn nữa? Cho dù ta có than khóc nàng suốt đời, thì những lời than khóc của ta phỏng được ích gì?”
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI MỐT.
Tôi sống gần hai năm với các anh chàng fakia ấy. Và có lẽ tôi đã còn ở lâu hơn nữa nơi ấy cùng với họ nếu anh chàng đã lôi kéo tôi vào cái nghề này, người tôi thích nhất trong tất cả bọn, không gợi ý với tôi nên đi đó đi đây vài chuyến. Một hôm anh chàng bảo tôi:
- Haxan à, tớ bắt đầu chán cái thành phố này, tớ đang muốn rong ruổi khắp đất nước. Tớ nghe nói ở thành phố Canđaha có nhiều điều thú vị lắm. Nếu cậu thích thì hẵng đi cùng tớ, rồi chúng ta sẽ tự mắt thấy người ta đồn đại có đúng hay không.
Tôi đồng ý, phần bởi tò mò muốn được nhìn những xứ sở mới, hay nói cho đúng hơn, có lẽ bởi tôi bị lôi cuốn bởi một sức mạnh thần bí nào đấy vẫn xui khiến chúng ta làm mọi việc trên đời.
Vậy là hai chúng tôi giã từ thành phố Bost và lên đường. Sau khi đi qua nhiều thành phố và thị trấn thuộc nước Segestan mà không dừng lại, cuối cùng tôi đến được thành phố Canđaha đẹp đẽ, chung quanh bao bọc bởi những tường thành rất vững chắc. Chúng tôi vào trọ tại một nhà dàng cho khách lưu trú. Mọi người đón tiếp chúng tôi khá thân hậu, nhờ ở bộ áo quần chúng tôi mặc, đấy là tất cả những thứ làm cho chúng tôi trở thành người sáng giá.
Khi vừa đến nơi, chúng tôi thấy quang cảnh dân chúng thành phố đang rất nhộn nhịp, bởi vì ngày hôm sau sè là dịp khánh chúc kỷ niệm ngày nhà vua đăng quang. Chúng tôi cũng được biết ngay mọi người trong triều đình thời gian này cũng hết sức bận rộn. Các vị đại thần ai cũng muốn bày tỏ lòng nhiệt thành của mình đối với quốc vương Firousat, mà mọi người đều tôn quý bởi sự anh minh của người, hơn là sợ hãi trước luật pháp khắt khe ngài trị nước.
Với bộ trang phục fakia thì đi đến đâu chẳng được, chẳng ai ngăn cấm các fakia bao giờ. Ngày hôm sau hai chúng tôi vào tận trong triều đình để xem hội. Quả thực, ai chưa từng xem hội mừng ngày đăng quang của nhà vua Ba Tư thì thật đáng nên xem lắm. Trong khi hai chúng tôi mải mê nhìn cảnh hội hè, tôi thấy có người kéo cánh tay, tôi quay lại, thấy bên cạnh viên hoạn nô trước đây phục vụ trong cung quốc vương Tamaspơ, người từng trao cho tôi mảnh giấy của nàng Calê Cairi, đúng hơn là của công chúa Zêlica. Y bảo tôi:
- Thưa ngài Haxan, tôi vẫn nhận ra ngài cho dù ngài đang vận bộ quần áo kỳ cục này. Cho dù tôi nghĩ chắc không thể nhầm, tôi vẫn không tin được ở mắt mình. Có lẽ nào tôi lại gặp ngài nơi đây?
- Còn anh – tôi đáp – anh làm gì ở thành phố Canđaha này? Tại sao anh giã từ triều đình nước Ba Tư? Có phải việc công chúa Zêlica qua đời khiến anh cũng xa rời thành phố ấy giống như tôi?
- Lúc này đây tôi không thể nào trả lời ngài điều đó – anh ta đáp – nhưng nếu ngày mai ngài lại có mặt chỉ mình thôi ở đúng chỗ này tôi sẽ thoả mãn sự hiếu kỳ của ngài. Tôi sẽ cho ngài biết những điều làm cho ngài vô cùng kinh ngạc. Vả chăng tôi muốn báo trước, những chuyện ấy đều liên quan đến ngài đấy.
Tôi hứa với anh ta ngày hôm sau tôi sẽ có mặt đúng chỗ này, và tôi giữ đúng lời. Viên hoạn nô lại xuất hiện, đến gần và bảo nhỏ:
- Chúng ta hãy đi ra ngoài hoàng cung, tìm một nơi thuận tiện hơn để chuyện trò.
Chúng tôi vào thành phố, đi qua nhiều đường, cuối cùng dừng lại trước cổng một ngôi nhà khá lớn mà an hta có chìa khóa cổng. Vào bên trong, tôi thấy các phòng đều được bày biện đồ đạc khá sang, có những tấm thảm đẹp trải sàn, nhiều chiếc sập trang trọng. Sau nhà là một khu vườn cây cối um tùm, chính giữa vườn có một cái bẻ chứa đầy nước trong veo, thành bể xây bằng đá vân thạch. Viên họan nô hỏi tôi:
- Thưa ngài Haxan, ngài thấy ngôi nhà này sống được chứ?
- Được lắm – tôi đáp.
- Như vậy tôi rất hài lòng – viên hoạn nô lại nói – bởi vì chính tôi hôm qua đã tìm thuê ngôi nhà này cho ngài đấy. Giờ cần có thêm vài tên nô lệ để hầu hạ ngài. Trong khi ngài đi tắm nước nóng, tôi sẽ ra chợ tìm mua mấy đứa.
Vừa nói anh ta vừa dẫn tôi đến một căn phòng, ở đấy đã chuẩn bị bồn tắm. Tôi nói:
- Nhân danh Thượng Đế, anh hãy nói cho ta hay tại sao anh dẫn ta đến ngôi nhà này, và có những điều gì anh định cho ta rõ.
- Rồi có người sẽ nói hết cho ngài nghe đúng nơi đúng lúc – anh ta đáp – Lúc này ngài chỉ cần biết số phận ngài đã thay đổi hẳn rồi, kể từ ngày ngài gặp tôi. Tôi được lệhh phải xử sự như ngài vừa trông thấy đấy.
Cùng lúc ấy viên hoạn quan giúp tôi cởi bỏ trang phục. Khi tôi vào buồng tắm, viên hoạn nô xin tôi chớ nên sốt ruột đi ra khỏi nhà.
Điều bí ẩn này khiến tôi suy nghĩ rất lung. Nhưng có vật đầu vật óc tự làm mệt mình đến bao nhiêu đi nữa cũng vô ích thôi. Viên hoạn quan ấy – tên là Sapua – để tôi nằm khá lâu trong bôn bước. Tôi đã bắt đầu mất hết kiên nhẫn thì anh ta trở lại theo sau có bốn tên nô lệ. Hai tên mang theo áo quần và các loại khăn, còn hai tên khác thì đủ thứ thức ăn nước uống. Viên hoạn nô nói:
- Xin ngài thứ lỗi, tôi tự trách mình để ngài chờ đợi quá lâu.
Mấy người nô lệ đặt các gói đồ của họ lên trên chiếc sập rồi vội vã hầu hạ tôi. Họ dùng những chiếc khăn vải mịn màng và mới toanh, lau khô người và xoa bóp cho tôi, sau đó mặc cho tôi một chiếc áo ngắn sang trọng, một chiếc áo dài lộng lẫy cùng một cái khăn đội đầu. Tôi tự hỏi “Những chuyện này rồi sẽ dẫn ta đi đến đâu nhỉ? Viên hoạn nô này đối xử với ta như vậy theo lệnh của ai?” Tôi vô cùng sốt ruột được hiểu rõ tất cả mọi điều, không làm sao chịu nổi nữa.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI HAI.
Sapua nhận ra điều đó. Y nói:
- Tôi rất tiếc thấy ngài đang hết sức băn khoăn, nhưng tôi không thể nào giúp ngài giảm nhẹ nỗi băn khoăn ấy. Nếu giả sử tôi không được lệnh tuyệt đối không nói ra bất cứ điều gì, giả sử tôi được quyền tuâng theo ý muốn của ngài mà nói ra lúc này thì cũng chẳng làm cho ngài thanh thản hơn. Ngược lại, có khi ngài lại còn thêm nôn nóng. Xin gắng chờ đến tối hôm nay, ngài sẽ biết rõ tất cả những gì ngài muốn biết.
Cho dù qua lời nói của viên hoạn nô, tôi thấy đây là một điềm lành, suốt cả ngày hôm ấy tôi vẫn ở trong một tâm trạng nôn nao khó chịu. Hoá ra chờ đợi một điều không hay sắp xảy đến, ít làm cho chúng ta đau khổ hơn chờ đợi một nỗi vui sắp thành hiện thực. Đến tối, đèn nến được đốt lên. Người ta chú ý đặc biệt chiếu thật sáng căn phòng đẹp nhất trong nhà. Tôi ngồi chờ ở đấy cùng với Sapua. Để làm dịu bớt nỗi phấp phỏng của tôi, thỉnh thoảng anh ta bảo: “Xin ngài kiên nhẫn cho chút nữa, lát nữa thôi, có người sắp đến rồi đấy”. Cuối cùng có tiếng gõ cửa. Viên hoạn nô thân hành ra mở cửa, và quay trở vào cùng với một người phụ nữ. Người ấy vừa cất tấm mạng che mặt, tôi nhận ra ngay nàng Calê Cairi. Tôi kinh ngạc đến cùng cực, bởi tôi vẫn ngỡ nàng lúc này đang ở kinh đô Siara. Nàng nói với tôi:
- Thưa ngài Haxan, ngài ngạc nhiên lắm khi nhìn thấy em, nhưng ngài sẽ còn ngạc nhiên nhiều hơn nữa sau khi ngài nghe những điều em sắp kể.
Viên hoạn nô Sapua cùng với hai người giúp việc đi ra khỏi phòng, để lại mình tôi với nàng Calê Cairi. Chúng tôi ngồi lên cùng một chiếc sập. Và nàng bắt đầu kể với tôi như sau:
- Hẳn ngài còn nhớ, thưa ngài Haxan, cái đêm hôm khi công chúa Zêlica bày tỏ tâm sự với ngài. Lúc chia tay công chúa nói, xin ngài hãy nhớ nàng có lời hứa. Sáng hôm sau, em hỏi công chúa nàng định tính sao, khi ngỏ lời hứa chắc như đinh đóng cột với ngài. Công chúa đáp nàng muốn làm sao cho ngài được hạnh phúc. Nàng muốn rồi đây sẽ có nhiều buổi gặp gỡ trò chuyện riêng với ngài không để cho ai biết. cho dù phải trải qua nhiều hiểm nguy. Hôm nay em không muốn dối ngài, ngay hôm ấy em đã không đồng tình với công chúa. Em đã tìm đủ mọi cách để nàng công chúa kiềm chế những hành động thái quá. Em thưa với nàng, thật kỳ cục sao một công chúa địa vị cao sang như nàng lại nghĩ tới chuyện dấn thân vào hiểm nghèo, thậm chí có thể vì thế mà mất mạng, chỉ vì một viên hầu cận. Tóm lại, em tìm mọi cách để công chúa chấm dứt tình yêu bột phát đối với ngài. Mong ngài tha thứ cho em. Tất cả mọi lý lẽ ccem nêu lên chỉ càng làm mạnh hơn nỗi đam mê của công chúa. Khi thấy không thể nào thuyết phục công chúa nghe lời mình, em liền hiến kế như sau:
- Thưa công chúa, em không thể không rùng mình kinh sợ khi nghĩ đến những hiểm nguy bà sắp lao thân vào. Nhưng bởi không còn cách nào khiến bà thôi nghĩ tới người yêu, chúng ta cần tìm phương sách để hai người tự do gặp nhau mà không làm nguy hại cuộc sống của bà cũng như của ngài Haxan. Em vừa nghĩ ra một phương sách may ra thực hiện được, nhưng nó khá tế nhị, em chẳng dám ngỏ lời thưa với bà.
Công chúa vội đáp:
- Em Calê Cairi, em hãy nói đi, cho dù phương sách ấy có gì xúc phạm chăng nữa, em cũng đừng giấu ta.
- Chỉ còn có cách – em đáp – Công chúa quyết định giã biệt cuộc sống đầy quyền uy và trên nhung lụa giữa hoàng triều để sống cuộc đời một người dân bình thường như tất cả mọi người bình thường khác trong xã hội. Bà phải khước từ tất cả mọi vinh quang bà đáng được hưởng do địa vị của mình. Bà có đủ yêu đương chàng Haxan tới mức dám có một sự hy sinh to lớn như vậy?
- Em hỏi ta có đủ yêu chàng không ư? – công chúa thở dài buồn bã đáp lời em – Ôi! Nếu thân phận ta là thân phận một con người không ai hay biết đến tên tuổi mà được tự do yêu chàng Haxan thì ta còn thích thú hơn ngàn lần tất cả mọi vàng son snag trọng, hào hoa mà ta đang hưởng thụ trong cuộc sống hàng ngày. Em hãy nói ta rõ, ta cần làm gì để được tự do thoải mái gặp người yêu, ta sẽ thực hiện ngay không chút do dự.
Em đáp:
- Bởi vì không còn cách nào để công chúa thay đổi ý kiến, em xin hiến phương sách sau đây. Em biết có một loài thảo dược có đặc tính hết sức kỳ lạ. Nếu công chúa bỏ vào tai chỉ một ngọn lá ấy thôi, thì sau một tiếng đồng hồ bà sẽ trở nên mê man bất tỉnh, coi như một người đã chết thật. Người ta sẽ làm tang lễ cho công chúa nội trong ngày, và đến đêm em sẽ đưa công chúa đã tỉnh lại ra khỏi nhà mồ.
Nghe đến đấy, tôi vội ngắt lời nàng Calê Cairi:
- Trời đất ơi! Vậy ra nàng công chúa Zêlica chưa chết? Nàng hiện ra sao?
- Thưa ngài – Calê đáp – công chúa hiện đang sống bình yên. Nhưng xin hãy lắng nghe em kể tiếp, ngài sẽ rõ tất cả những gì ngài muốn biết. Công chúa chủ nhân của em, mới nghe vậy đã mừng rỡ ôm hôn em, bà cho cái kế ấy thật tuyệt diệu. Nhưng bà nghĩ rất khó thực hiện, bởi lễ tang của bà chắc kéo dài nhiều ngày. Công chúa nói luôn với em suy nghĩ ấy. Em thưa, có cách vượt qua trở ngại. Sau đây là cung cách chúng em đã làm để thực hiện mưu đồ mạo hiểm.
Ngay hôm ấy công chúa Zêlica kêu đau đầu, và đi nghỉ. Sáng hôm sau, em cho đồn đại công chúa vừa đổ bệnh, một căn bệnh cực kỳ nguy cấp. Quan ngự y của chính đức vua được vời đến, ông cũng bị mắc lừa. Ông kê ra đơn rất nhiều lọai thuốc, em có đưa công chúa dùng thuốc nào đâu. Những ngày tiếp đó đồn đại bệnh tình càng nặng hơn. Khi em nhận thấy rằng bây giờ đã đến lúc mọi người tin công chúa ốm nặng lắm rồi, em liền bỏ vào tai nàng một ngọn lá thần dược em vừa nói ở trên. Rồi ngay lập tức sau đó em chạy bổ đến cấp báo với đức vua có lẽ công chúa Zêlica chỉ còn sống được trong chốc lát nữa thôi, bà tỏ ý mong được gặp quốc vương. Nhà vua vội vàng đến. Nhìn thấy do tác động của loại độc dược khuôn mặt nàng biến sắc rất nhanh, vua xúc động khôn cùng và tuôn rơi nước mắt. Lúc này, công chúa mới thưa với đức vua “Tâu bệ hạ, con xin phụ vương, vì tình thương yêu cha luôn luôn dành cho con, xin cha hãy truyền lệnh để những lời giối giăng của con đây sẽ được thực hiện đúng đắn. Con muốn sau khi con qua đời, không để cho bất cứ một cung nữ nào khác ngoài em Calê Cairi được lau rửa thi thể và xức nước hoa cho con. Con không muốn các cung nữ khác được chia xẻ vinh dự ấy cu1ng với Calê Cairi. Con xin cha chỉ cho phép riêng mình em ấy thôi thức canh bên cạnh thi hài con đêm đầu tiên, không để bất kỳ một người nào khác ngoài em Calê Cairi đến than khóc bên mộ của con đêm đầu tiên. Con muốn cô cung nữ trung thành ấy sẽ là người cầu nguyện Đấng Tiên tri cứu giúp, ngăn ngừa những thần linh độc ác đến quấy rầy con sau khi qua đời”.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI BA.
Quốc vương Tamaspơ vừa khóc vừa hứa với con gái sẽ cho thực hiện tang lễ theo đúng như lời nàng giối giăng. Công chúa nói tiếp:
- Không phải chỉ có thế thôi, thưa phụ vương. Con xin ngài, ngay khi con qua đời, cho em Calê Cairi được trở thành người tự do. Cùng với việc cho phép em được tự chọn muốn sống ở đâu thì sống, xin cha hãy ban cho em khá nhiều của cải, xứng đáng với lòng hào hiệp vốn có của cha, và đền đáp sự quyến luyến tận tuỵ của em đối với con suốt cả đời, khi con còn sống.
- Con gái ta ơi – vua Tamaspơ đáp – con hãy yên tâm về tất cả người điều con vừa dặn cha thực hiện. Nếu chẳng may cha không còn có con trên đời này nữa, cha thề với con, cô cung nữ tâm phúc nhất của con sẽ được tự do, nó muốn đi đến đâu tuỳ ý nó, cùng với rất nhiều của cải cha sẽ ban cho.
Quốc vương vừa nói xong mấy lời ấy, thì chất độc thảo dược gây đầy đủ hiệu quả. Công chúa Zêlica lịm đi, và nhà vua tưởng nàng mất rồi, vừa khóc vừa quay trở về cung riêng của mình. Vua truyền lệnh chỉ cho phép tôi được lau rửa thân thể và xức hương cho nàng công chúa. Làm xong công việc ấy, tôi cuộn nàng công chúa vào một tấm vải trắng đặt vào trong quan tài. Quan tài sau đó được đưa vào lăng mộ. Vẫn theo lệnh vua, người ta để cho tôi một mình trong mộ của công chúa. Tôi quan sát khắp nơi để nhìn xem có ai nấp ở đâu đấy theo dõi mình hay không. Không thấy có ai tôi đưa bà chủ của tôi ra khỏi quan tài và chờ bà tỉnh hẳn. Tôi trao cho bà một chiếc áo dài cùng tấm mạng che mặt mà tôi đã mang theo giấu trong vạt áo. Hai chúng tôi đi đến một nơi anh Sapua đang chờ sẵn. Viên hoạn nô trung thành ấy đưa công chúa vào nghỉ tạm ở một ngôi nhà anh đã thuê trước, trong khi tôi trở lại bên mồ, thức canh cho hết đêm. Tôi dùng vải độn thành hình dáng một thi hài, liệm bằng chính tấm vải trắng tôi đã dùng để cuộn thân thể nàng Zêlica, rồi đặt trở lại vào trong quan tài.
Sáng sớm hôm sau, khi những cung nữ khác của công chúa đến đổi phiên cho tôi, tôi làm ra bộ khóc lóc thảm thiết, đau đớn vô cùng trước khi đi ra khỏii ngôi mộ. Người ta trình với quốc vương, tôi hết sức buồn thương công chúa, càng khiến người sai ban cho tôi rất nhiều của cải. Vua cho lấy từ kho tàng ra mười nghìn đồng xơcanh trao cho tôi, rồi chấp nhận lời tôi xin cho viên hoạn nô Sapua được cùng ra khỏi hoàng cung. Sau đấy, tôi đến tìm bà chủ, cùng chung vui với nhau về thành công trót lọt của mưu đồ.
Ngày hôm sau, chúng tôi bảo viên hoạn nô quay trở về phòng riêng của đức vua, mang theo mảnh giấy tôi yêu cầu ngài đến gặp tôi ở chỗ nọ. Nhưng một đồng nghiệp của ngài nói ngài đang ốm, không ai được phép gặp. Ba ngày sau nữa, chúng tôi lại cử Sapua đến, mới té ngửa ra ngài đã ra đi khỏi hoàng cung, bây giờ chẳng một ai hay biết ngài ở chỗ nào.
Nghe đến đây, tôi nóng nảy ngắt lời Calê:
- Tại sao không báo trước cho tôi dự định của các cô? Tại sao không sai Sapua đến tin cho tôi hay ngay? Ôi! Giá được một mảnh giấy thì đã đỡ cho tôi biết bao vất vả nhọc nhằn.
- Ngài hỏi tại sao chúng tôi giữ bí mật ư? – đến lượt Calê Cairi ngắt lời tôi – công chúa Zêlica lúc này hẳn đã có thể cùng sống với ngài ở một nơi nào đấy trên trái đất, nếu hôm ấy bà để cho tôi được quyền quyết định. Ngay sau khi thoả thuận mưu kế với nhau, tôi đã ngỏ ý nên báo cho ngài biết, nhưng bà chủ tôi không muốn vậy. Bà nói: “không nên. Hãy để cho chàng đau khổ vì việc ta qua đời đột ngột. Sau đấy, chàng sẽ xúc động hơn, hạnh phúc hơn khi gặp ta. Chàng càng đau khổ về việc ta chết bao nhiêu, thì sự bất ngờ khi gặp lại ta còn sống sẽ càng thú vị bấy nhiêu”. Tôi không đồng ý với dâu hiệu yêu đương tinh tế ấy của công chúa, như thể tôi linh cảm sẽ xảy ra những hậu quả đáng buồn, và thực tế sau đó bản thân công chúa Zêlica cũng vì điều ấy mà hối hận. Tôi không sao nói hết với ngài, công chúa buồn bã đến mức nào khi nghe tin ngài đã bỏ ra đi. Bà luôn luôn dập đầu bứt tóc: “Ôi khốn nạn thân tôi! Có ích gì việc tôi hy sinh mọi cao sang phú quý vì tình yêu, có ích gì tôi đã làm tất cả những chuyện ấy để rồi chẳng bao giờ gặp lại chàng Haxan!”. Chúng tôi đã nhờ tìm kiếm ngài khắp thành phố. Anh Sapua đã không tiếc sức để cố gặp ngài. Khi mất hết mọi hy vọng, chúng tôi giã từ thành phố Siara, tôi đi về phía sông Ấn độ bởi chúng tôi mường tượng hẳn ngài có thể cùng đưa chân đi về hướng ấy. Đến bất kỳ thành phố, thị trấn nào bên bờ con sông lớn ấy, chúng tôi đều dừng lại tìm kiếm ngài rất kỹ nhưng đều vô ích. Một hôm, đang đi từ một điểm cư dân này đến điểm khác, cho dù chúng tôi cẩn thận nhập chung cùng một đoàn lữ hành, bất ngờ vẫn gặp một toán cướp rất đông ập đến bao vây, đánh đập các thương nhân và cướp bóc hết hàng hoá của họ. Chúng cũng bắt luôn chúng tôi, tước đọat tất cả vàng bạc, ngọc ngà chúng tôi mang theo trên người. Sau đấy, toán cướp dẫn chúng tôi về thành phố Canđaha, bán cho một nhà buôn nô lệ có quan hệ với chúng từ trước.
Vị thương gia ấy vừa mua được nàng Zêlica thì quyết định đưa ngay nàng vào trình diện quốc vương. Vừa nhìn thấy, vua Fiarusat đã hết sức say mê vẻ đẹp của nàng. Vua hỏi nàng người quê ở đâu, công chúa đáp nàng sinh ra tại thành phố Ormut. Nàng cũng trả lời các câu hỏi khác của nhà vua một cách đúng mực. Vua xuất tiền mua cả hai chúng tôi, cho sang ở một ngôi nhà đẹp nhất trong phần hoàng cung dành riêng cho các bà hoàng, công chúa.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI TƯ.
Nói đến đây Calê ngừng lời, hay nói đúng hơn, nàng bị tôi ngắt lời:
- Trời đất ơi! Làm sao bảo tôi có thể vui mừng sắp gặp lại nàng Zêlica? Sao có thể nói là gặp lại, khi đồng thời với tin nàng còn sống, tôi được biết nàng đang bị một quốc vương hùng mạnh giữ trong cung riêng của mình. Giả sử nàng dám cưỡng lại tình yêu của vua Fiarusat, thì những ngày của công chúa sống trong thời gia qua thật đầy chuyện đáng buồn phiền, và làm sao tôi không đau khổ khi biết nàng cũng đau khổ. Nhưng, giả sử nàng yên tâm và hài lòng về số phận của nàng, thì làm sao bảo tôi có thể hài lòng về số phận của tôi?
- Tôi rất vui được nghe ngài biểu lộ những tình cảm tinh tế như vậy. – Calê Cairi nói tiếp – công chúa thật xứng đáng với tình cảm của ngài. Cho dù quốc vương kinh đô Canđaha yêu nàng tha thiết, nàng vẫn không sao quên được ngài, và chưa bao giờ tôi thấy nàng vui như hôm qua, khi anh Sapua báo cho biết anh vừa gặp ngài. Suốt cả buổi chiều, công chúa như người ngẩn ngơ vì mong nhớ. Lập tức bà sai viên hoạn nô đi tìm thuê một ngôi nhà lớn có sẵn đồ đạc, và hôm nay rước ngài đến ở, không được để cho ngài thiếu thốn thứ gì. Hôm nay, công chúa lại sai tôi đến đây trình bày cho ngài rõ tất cả mọi điều, như tôi vừa nói. Ngài hãy sẵn sàng để tối mai gặp công chúa ở ngôi nhà này. Tối mai, chúng tôi sẽ ra khỏi hoàng thành qua một cổng nhỏ trong vườn mà chúng tôi đã sai đánh trước một chiếc chìa khóa phòng ngừa sử dụng khi cần.
Nói đến đấy, cô cung nhân sủng ái của công chúa nước Ba Tư đứng lên rồi cùng với Sapua vội vã trở về với bà chủ của mình.
Suốt đêm hôm ấy, tôi chỉ nghĩ đến nàng Zêlica. Tg cảm thấy tất cả tình yêu nồng cháy đối với nàng trở lại hun đốt trong tâm can. Suốt đêm, tôi không hề chợp mắt. Và ngày hôm sau đối với tôi dài như cả một thế kỷ. Cuối cùng, sau một thời gian khôn cùng náo nức chờ đợi, tôi chợt nghe có tiếng gõ cửa. Những người giúp việc ra mở. Lát sau tôi thấy nàng công chúa của tôi bước vào phòng. Sự xuất hiện của người yêu làm cho tôi vừa bối rối vừa thảng thốt mừng vui. Về phía nàng, nỗi vui lớn cũng lộ ra mặt. Tôi cúi xuống dưới chân nàng, ôm rất lâu trong vòng tay, chẳng nói nên lời. Nàng đỡ tôi đứng lên, mời tôi ngồi xuống bên cạnh nàng trên chiếc sập và nói:
- chàng Haxan ơi, tạ ơn trời đất cho chúng ta tái ngộ. Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng, phúc trời ban cho không chỉ dừng lại ở đấy. Rồi trời sẽ cho phép chúng ta vượt qua mọi trở lực để được chung sống với nhau. Trong khi chờ đợi giờ phút hạnh phúc ấy đến, chàng hãy sống ở đây thanh thản và phong lưu. Nếu chúng ta chẳng có được niềm vui thoải mái chuyện trò với nhau ngay, ít ra chúng ta cũng được an ửi bởi hàng ngày sẽ có thể nhận được tin tức của nhau, rồi thỉnh thoảng sẽ bí mật gặp nhau. Em Calê Cairi đã kể hết chàng nghe những việc từng xảy ra với em thời gian qua, giờ chàng hãy nói lại cho chúng em biết đã xảy ra những gì mấy năm qua đối với chàng.
Tôi thuật lại với nàng nỗi đau vô biên khi được tin nàng qua đời. Tôi nói tin buồn ấy làm tôi chán ngán mọi sự trên đời, đến mức đi tu theo dòng fakia chuyên sống nhờ khất thực. Nàng thốt lên:
- Ôi chàng Haxan quý mến! Vì tình yêu đối với em mà chàng đã phải sống một thời gian lâu như vậy cùng những người khổ hạnh hay sao? Hỡi ôi! Em đã gây nên cho chàng biết bao khổ ải.
Giá nàng biết thực tế tôi đã sống như thế nào dưới chiếc áo khất sĩ ấy, hẳn nàng đã bớt phàn nàn cho tôi. Nhưng tôi giữ kín, không nói gì về việc ấy, tôi chỉ một mực kể lể chuyện da diết nhớ thương.
Thời gian trò chuyện trôi qua mới nhanh làm sao! Gặp nhau dễ đã hơn ba tiếng đồng hồ, thế mà chúng tôi vẫn bực mình khi thấy Sapua và Calê Cairi bước vào, báo cho biết đến lúc nàng công chúa phải trở về “Quả thật những người không biết yêu đương, lúc nào đến là khó chịu! Hai ta mới ngồi với nhau được chốc lát, thế mà các người đã vào bảo chúng ta phải chia tay!” Nói vậy, nhưng nếu nấn ná trò chuyện thêm chốc nữa, thì ngày đã rạng, bởi công chúa vừa bước ra đi khỏi nhà chốc lát thôi thì trời đã sáng hẳn.
Mặc dù trong lòng đang hết sức khoái trá, tôi vẫn không quên anh chàng fakia đã đi cùng tôi đến thành phố Canđaha này. Tôi nghĩ anh ta chắc đang lo lắng không biết tôi ra sao, nên vội vã ra khỏi nhà định đi tìm anh bạn. Tình cờ tôi gặp anh chàng trong phố. Chúng tôi ôm hôn nhau. Tôi bảo:
- Anh bạn ơi, tôi định đến nhà trọ báo cho anh biết việc gì vừa mới xảy ra với tôi mấy ngày qua, để anh yên tâm. Tôi nghĩ chắc tôi cũng có gây nên cho anh ít nhiều lo lắng.
- Đúng vậy – anh chàng đáp – tôi đang lo cháy ruột cháy gan vì bạn. Nhưng làm sao anh thay đổi nhiều vậy? Anh mặc bộ quần áo đâu ra mà đẹp thế này? Có vẻ như anh đang giàu có lắm. Trong khi tôi lo vì anh gặp chuyện bất ổn, thì dường như anh đang sống rất thoải mái, phong lưu.
Tôi đáp:
- Anh bạn thân thiết của tôi ơi, thú thật với bạn tôi còn nghìn lần hạnh phúc hơn những gì anh tưởng tượng. Tôi muốn anh là chứng nhân cho hạnh phúc của tôi và chia sẻ với tôi một phần hạnh phúc ấy. Hãy vứt cái quán trọ của bạn đi, và đến đây ở chung với tôi, anh bạn ạ.
Nói xong tôi dẫn anh ta về nhà, đưa đi xem tất cả các phòng. Anh ta thấy chỗ nào cũng đẹp cái gì cũng sang. Đến đâu anh cũng xuýt xoa “Trời đất ơi! Anh chàng Haxan này làm được gì hơn những người khác, mà bỗng dưng được trời ban cho bấy nhiêu của cải?”
- Thế nào, hỡi anh bạn fakia, vậy ra anh muốn nhìn thấy tôi lúc này âu sầu buồn bã hay sao? Dường như sự giàu có của tôi không làm anh được vui?
- Không, ngược lại – anh chàng đáp – tôi vui mừng lắm. Đời tôi không bao giờ tôi ganh tị với bạn bè, lúc nào tôi cũng hết sức mừng thấy bạn bè sống cảnh phồn vinh.
Nói đến đấy anh chàng đưa vòng tay ôm chặt cổ tôi để chứng tỏ anh nói thật lòng. Tôi ngỡ anh ta nói chân tình. Không ngờ tôi lại hết lòng tin cậy một con người hèn hạ nhất, ganh tị nhất, tráo trở nhất trần gian. Tôi bảo anh bạn:
- Hôm nay chúng ta phải đánh chén với nhau một bữa ra trò.
Nói xong tôi cầm tay anh kéo sang phòng ăn, ở đấy những người giúp việc đã bày ra một cái bàn nhỏ cho hai người dùng bữa.