Tên hung thần mừng rỡ nghe tôi đồng ý làm việc lão đang cần. Nhưng cảnh giác lão, sợ nó lại rở trò ma giáo gì chăng, tôi không quên lầm rầm niệm câu thần chú, Trong lúc ấy, hung thần rút từ trong túi cua nó ra một nắm viên đạn trì đặt nó vào bàn tay tôi , và bảo:
- Hãy cầm lấy những viên chì này. Anh chớ quên mỗi lần thấy ta ngã vật ra hay không biết trời đất gì nữa thì anh hãy ném cho ta một viên.
- Tôi sẽ làm tất cả những gì ông truyền bảo,- tôi đáp- ông có thể tin lời tôi.
Hung thần đứng lên tôi cũng đứng lên theo và hai chúng tôi tiến bước đến tòa lâu đài. Lão hung thần cũng cầm ở tay một nắm viên đạn chì một nắm viên đạn trì y như tôi. Y nén mạnh một viên vào cổng bằng đồng, cánh cử tự động mở ngay tức khắc. Chúng tôi bước vào một cái sân lát đá vân thạch. Có hai con sư tử nằm canh vứa trông thấy chúng tôi, chúng gầm lên. Lão hung thần ném cho mỗi con một viên đạn chì, chúng năm yên không động đậy. Chúng tôi lại đi tiếp và gặp một cánh cổng nữa bằng đồng, khóa bới một ống khóa bằng bạc. Một viên đạn vừa ném trúng cái khóa, nó đã rơi xuống và cánh cổng đồng lại tự động mở ra ngay tức khắc. Trước mặt chúng tôi hiện ra một cái hang hết sức rộng, chính giữa hang có một con sông lớn cuồn cuộn chảy dòng nước đen xì, hai bên bờ phục hai con rồng to lớn dị thường.
Vừa nhác thấy chúng tôi, hai cong rồng giương cánh, rít lên những tiếng dữ tợn, và bắt đầu há miệng phun ra những ngọn lứa rầm rập. Lão hung thần lại ném đạn vào, chúng nắm yên xuống đất và không gáo rít nữa.
Chúng tôi tiếp đến một cái sân rộng khác. Cái sân này lát bằng những tấm bạc khối, và chung quanh có tường rào hình như xây bằng những viên gạch vàng ròng, Chính giữa sân là một mái đình có vòm cao bằng gỗ trầm hương đỏ, do sáu cái cột đúc bằng thép Trung Hoa đỡ mái. Dưới mái hòm kê một chiếc sập bằng vàng khối. Trên sập đặt một cỗ quan tài bằng ngọc quý tỏa sáng long lanh làm tôi lóa cả mắt.
Chúng tôi vừa mon men đến gần, hai con quát vật thân giống hình sư tử song đầu và cánh giống đầu và cánh chim ưng đang nằm canh cái vòm, định xông tới xé xác chúng tôi ra. Nhưng các viên đạn chì buộc chúng thụt lùi. Nhờ vậy chúng tôi bước đến không gặp trở ngải, sát cỗ quan tài và nhìn vào bên trong.
Cỗ quan tài ngọc đựng thi hài một ông già đáng kính, có vẻ như cụ vẫn còn đang thở. Thần chết bao giờ cững làm biến dạng, khiến cho những con người khi đẹp nhất lúc sống trên trần gian trở thành những cái xác khủng khiếp sau khi qua đời, nhưng dường như có vẻ kiêng dè nhân vật đang yên nghỉ trước mắt chúng tôi.
Ngón tay cụ đeo nhiều chiếc nhẫn, có một chiếc rất lớn trên mặt có khắc đại danh Thượng đế tối cao(1) (Người Hồi giáo tin rằng Thượng đế có 101 tính danh, mỗi tính danh thể hiện một đức, như hiền từ, thành thiện, công minh… Đại danh của Thượng đế thể hiện đầy đủ mọi tính danh.) Lão hung thần định thò tay tháo chiếc nhẫn ấy, thì ngay lập tức sà xuống một con rắn thân dài có cánh, há miệng thổi vào lão hung thần, làm lão xuống bất tỉnh. Sực nhớ lời hung thần dặn, tôi ném một viên đạn vào người lão bừng tỉnh trong giây lát. Lão nói:
- Mày làm được việc lắm. Đấy là tất cả những gì ta đòi hỏi ở mày. Chớ quên mỗi lần ta cần lại ném cho ta một viên đạn trì như lúc nãy.
Nói xong, y lại thò tay cố ném chiếc nhẫn ra lần nữa. con rắn có cánh lại hà hơi, làm lão hung thần bất tỉnh, Với một viên trì nữa, tôi lại giúp cho lão hồi tỉnh. Lão kêu to, bảo tôi:
- Hỡi anh em tín đồ Hồi giáo ta hàm ơn anh biết bao nhiêu! Anh nên biết thi hài trong cỗ quan tài này là đấng tiên tri Xalomon. Ta muốn lấy được cái nhẫn của người. Lấy được ta sẽ làm bá chủ thế giới, và đến lúc ấy ta sẽ không quên công lao anh đã phò tá ta.
- Sao tự ông không dùng những viên đạn của ông để xua con rắn thần ấy đi?- Tôi hỏi lão.
- Những viên trì ấy chẳng có tác dụng gì đối với nó. Sau khi ta bất tỉnh, ta phải hồi sinh trở lại mới hay vọng thực hiện được ý đồ của ta.
- Nói đến đấy, hung thần lại cố gắng lần thứ ba, lão đã tháo chiếc nhẫn ra được một nữa đốt ngón tay của đấng tiên tri thi tối thiêng liêng, nhưng lần này cũng bị chính con rắn ấy thổi hơn khiến lão ấy ngất xỉu lần thứ ba.
Tôi định làm tiếp công việc của mình. Tây tôi đưa lên cao, sắp tung viên đạn cứu lão, thì con rắn cất lơi nói với tôi, với lời lẽ như sau:
- Hỡi chàng tín đồ Hồi giáo, xin chào chớ nên cứu vớt lão hung thần kia một lần nữa mà chi. Nó chính là một trong bảy tên hung thần ma giáo đã nổi loạn chống lại đức Xalomon, và đã bị ngài bắt nhốt vào tật sâu trong lòng đất để trừng phạt tội bất kính của chúng. Lão chỉ lăm le đoạt cho được chiếc nhẫn mà lão hiểu rõ quyền lực của nó. Lão nằm chờ không biết bao lâu rồi ở chân quả núi nơi chàng gặp nó vừa rồi, mong có ai đến giúp lão chiếm đoạt chiếu nhẫn. Nhưng lão chẳng sao đạt được ý đồ, bởi có ta đây chăm lo việc giữ gìn chiếu nhẫn. Ta là một thần linh trung thành với đấng tiên tri xalomon, do đó riêng một mình ta đã đủ sức mạnh đánh bại không chỉ tên hung thần ấy mà cả sáu tên bạn của lão hợp sức lại cùng. Vậy chàng hãy để yên cho lão nằm ở đây cho đến ngày tận thế. Chàng hãy mau đi đi ra khỏi nơi này . Chớ nên làm mất yên tĩnh chốn thiêng liêng. Nếu không nghe lời ta buộc phải tiêu diệt luôn cả chàng. Giá chàng không phải là tín đồ thuộc đạo đấng tiên chi Mahômêt, ta đã cho chàng mất mạng từ lâu rồi.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI SÁU.
Tôi đáp lại yêu cầu của vị thần trung thành với đại đế Xalomon bằng cách tuân thủ. Tôi quay gót trở lại nơi chân núi, lần này chẳng cần dùng đến các viên đạn chì để xua con rồng và các con sư tử tránh xa. Các con vật hung dữ vẫn còn nằm yên trong trạng thái y như khi lão hung thần ném viên đạn vào nó.
Tôi theo một con đường mòn dẫn đến một cánh đồng. Trước khi vào cánh đồng ấy, phải đi qua một cái hang, từ miệng hang lửa và khói không ngừng tuôn ra dữ dội. Tai tôi chợt nghe thấy tiếng xiềng xích sắt loảng xoảng cùng với những tiếng kêu la , than khóc , rên xiết cực kỳ ảo não. Ở cửa hang ngự một con quái vật mà tôi không đủ lời lẽ nào để các vị hình dung nó xấu xí đến thế nào. Tôi đồ chừng đây là một vị hung thần ma giáo, bởi tôi trông nó giống hệt những hung thần tôi đã gặp. Tên này bị xiềng chặt vào khối đá bởi những sợi xích sắt rõ to.
Nó cất tiếng gọi tôi, nghe ầm ầm chẳng khác tiếng sấm rền:
- Hỡi chàng trai trẻ kia, hãy dừng chân và nghe ta bảo đây. Mày là người xứ nào?Mày theo đạo giáo nào?
Tôi đáp tôi là người thành phố Basra, đạo của tôi là đạo Hồi.
- Vậy tiên tri Mahômêt có còn sống trên đời chăng?- Y hỏi?
- Ngài đã đổi nơi sống rồi. Trong cuộc đời trần thế, Ngài đã làm tròn sứ mệnh tuyệt vời. Bởi vậy ngày bước ra khỏi thế giới trần tục để sang hưởng hạnh phúc vĩnh hằng trên chốn thiên đàng.
Y lại đặt ra cho tôi nhiều câu hỏi khác nữa:
- Những người theo Hồi giáo ngày nay thường xuyên cầu nguyện hay không? Phong tục đạo đức của họ có được tinh khiết chăng?
- Họ cầu nguyện thường xuyên,- tôi đáp.- Nhưng than ôi tất cả mọi người đều ai cũng hết mực tuân theo những lời giáo huấn của đức Mahômết.
- Được như vậy càng tốt,- Vậy nước sông Zemzem vẫn chảy đều đều chứ?
- Nó vẫn chảy đều đều.- Tôi đáp.
- Rồi đây có một ngày nó sẽ cạn kiệt sự vô luân sẽ trờ thành phổ biến. Rồi mọi tội ác sẽ thao hồ tái diễn. Sự ngoại tình sẽ sảy ra khắp mọi nơi chốn, chẳng ai buồn giữ lời thề, rồi con người sẽ ăn thịt lợn, người ta sẽ uống rượi chè bê tha nơi công cộng , rồi người ta sẽ thấy phụ nữa cưỡi nhong nhong trên mình ngựa.
- Ồ, cái thời ấy đâu có xa xôi gì,-tôi đáp- ngày nay nhiều người vẫn sống theo cung cách ấy thôi.
Tôi để ý sau câu sau cùng này của tôi khiến lão hung thần vui mừng khôn xiết. Lão sôi nổi nói:
- Này, hỡi con người trần thế kia! Có thể nào con người nay phạm lắm tội lỗi đến thế? Mi mang lại cho ta tin tức quá tốt đấy. Đã đến lúc ta bỏ cảnh nô lệ tù đày để đến sống chung với con người trần thế. Này chàng trai trẻ ngươi biết ta đây là quỷ Đêtgin(1)(Dedgeal : Qủy chống lại Thượng đế, tương tự quỷ Xatăng đối với người theo đạo Thiên chúa). Ta sẽ mang lên trần thế để trút nỗi điên giận của ta vào loài người.
Nói đến đây, lão cố đập phá cái xiềng, cố bứt tung dây xích cuối cùng tự lao cũng thoát ra khỏi xiềng xích trói buộc. Nhưng mới đến đấy, lão chưa kịp làm gì thêm, đã có hai vị thần linh mặc áo xanh xuất hiện ngay tức khắc, bắt giữ lão lại. Một thần xiếng lão trở lại vào cối đá, thần kia cầm cây trùy thép đập vào đầu lão, và bảo :
- Hãy yên mày hãy ở yên đấy. Mày phá xiềng xích lúc này quá sớm. Mày hãy chờ cho đến lúc được người ta tha và cho lên trần thế. Giờ khắc đó chưa đến đâu.
Tôi lo âu nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt. Tôi vội xa lánh con quỷ càng xa càng tốt. Tôi đi vào bên trong cánh đồng, lòng hết sức hoang mang, rồi bước theo một con đường hai bên trồng những hàng cây lô hội đẹp như chưa từng thấy bao giờ. Con đường ấy dẫn đến tận hào sâu bao quanh một lâu đài nhìn thấy từ xa.
Tòa lâu đài ấy, tường xây bằng vàng các lỗ châu mai khảm ngọc. Muốn vào phải đi qua cổng bằng bạc, mà cái khóa bằng ngọc xanh. Sau khi ngắm nghía hồi lâu công trình tuyệt mỹ, tôi nảy ra lòng hiếu kỳ mạnh mẽ muốn nhìn thấy bên trong. Tôi tiến đến gần cổng hơn và đọc mấy dòng chữ sau bằng vàng :
Người nào sau này sẽ tới đây và muốn mớ cái cánh cửa này cần biết không có thìa khóa nào ngoài những lời sau : Trên đời không có thần thánh nào khác ngoài thượng đế, và Mahômêt là đấng tiên tri của thượng đế, và adam là người được thượng đế lựa chọn. Không có thần thành nào ngoài thượng đế, và Ismael nạn nhân của Thượng đế.
Quả nhiên tôi vừa đọc xong mấy câu trên thì cổng tự động mở ra. Tôi biết kể thế nào cho các vị nhỉ. Không có lời lẽ đử sức mô tả quang cảnh hiện ra trước mắt tôi lúc ấy. Các vị hãy vận dụng tất cả các trí tưởng tượng của mình để hình dung những gì sang trọng nhất, huy hoàng nhất, tráng lệ nhất : rồi các vị hãy nghĩ rằng hình dung ấy còn rất xa mới đạt được nhưng gì tôi trông thấy. Có một tòa lâu đài xây bằng một thứ kim loại màu xanh mà tôi chưa hề được biết. Nhưng dù chát liệu ấu có quý bao nhiêu, vẫn không thể sánh bằng sự tinh sảo do bàn tay chế tác xây dựng nên. Kiến trúc tạo lâu đài không giống với các công trình xây dựng của con người chúng ta, thoạt nhìn biết ngay không phải do con người làm nên. Các gian phòng bày biện nào ghế, sập bọc toàn bằng vải thếp vàng và lụa. trên tường có nhiều bức tranh thu hút rất lâu mắt tôi. Các bức tranh mô tả các cuộc chiến tranh mà Đâng tiên tri của chúng ta đã tiến hành nhằm thiết lập tôn giáo của Người, nhưng tất cả đều được sáng tạo với nghệ thuật cao siêu đến nỗi nhà văn họa many nổi tiếng thế giới với bàn tay vàng của ông chắc cũng phải thực lòng thú nhận ông không thế nào vẽ được gần đến như thế.
Tôi đã qua nhiều gian phòng, và ngạc nhiên chẳng hề gặp một ai. Tôi bước vào một khu vườn rộng mênh mông, mà muốn mô tả cũng gặp khó khăn như khi mô tả tòa lâu đài. Các lối đi trong vườn đều dài tít tắp, hai bên trồng đủ lại cây ăn trái, lại có những bồn hoa trồng nhiều loại hoa người đời chưa từng thấy bao giờ, còn hồ nước được xây bằng vàng khối chứa nước trong leo lẻo.
Tôi ngắn nhìn những thứ ấy không chán mắt. Trong khu vườn kìa diệu ấy có đủ loài chim chóc lông cánh màu sắc rực rỡ khác thường đưa nhau hát lứu lo vang không lừng không gian.
Tôi chợt nhận ra trên đường một kỵ sĩ không có râu cằm, trang phục đầy kim cương. Chiếc khăn đội đầu của người khảm nhiều viên hồng ngọc. Con ngựa cưỡi màu hồng tươi, và cứ mỗi bước chân đi qua lại mộc lên ngay tức khắc những đóa hoa dấu chân ấy. Dáng vóc người đẹp hơn mặt trăng, từ đôi mắt người tỏa ra lung linh ánh sáng.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI BẢY.
Nhìn trang phục và dáng vẻ của người kỵ sĩ tôi thoạt nghĩ đây là vị chủ nhân của tòa lâu đài. Tôi bắt đầu e ngại người sẽ trách tôi sao dám tự tiện vào trong khuôn viên lâu đài, thì khi đi ngang trước mặt tôi, người dừng ngựa và bảo :
- Hỡi chàng trai trẻ phải chăng anh là người thành phố Basra ?
- Thưa vâng- tôi đáp.
- Xin hoan nghênh,- kỵ sĩ nói tiếp- Ta biết thế nào chàng cũng phải đến đây. Nhưng hãy nói cho ta biết, chàng đã ngắm cảnh vật chốn này, vậy chàng đã dùng nhưng món ăn thường ngày ở đây chưa ?
- Tôi đã nhìn thấy bao nhiêu cảnh vật kỳ thú đáng ngạc nhiên,- tôi nói- nhưng thức ăn của quý vi, tôi chưa được biết nó ra thế nào.
- Vậy hãy tiếp tục bước đi, chàng khắc gặp một người dẫn đường- ông nói tiếp.- Rồi chàng sẽ đạt được đỉnh cao của ước vọng.
Tôi tiếp tục dạo bước đưa mắt nhìn tứ phía. Không có thế có gì làm chán mắt, cũng chẳng có lời nào thán phục cho cùng. Cuối cùng đến nơi đặt cái khám thờ, phía trên khám có ghi dòng chữ : Không có thần thành nào ngoài thượng đế, và và Mahômêt là đấng tiên tri của Người. trong khám có một người đàn ông đang quỳ. Đợi cho người ấy đọc kinh câu nguyện xong tôi vái chào. Người ấy đáp lẽ và nói
- Hỡi tín đồ Hồi giáo trẻ tuổi ! Hẳn chàng được đấng Mahômêt quý yêu lắm cho nên mới tới được nơi đây. Chàng có biết chàng đang ở nơi đâu không ? Chàng nên biết đây là nơi yên nghỉ dành cho bà con và bạn hữu của đâng tiên tri. Ở đây lạc thú vĩnh hằng chờ đón mọt người. Đã rất đông và con và bạn bè của đấng tiên tri ở đâu rồi, ta sẽ giới thiệu chàng với họ.
Thế là người đàn ông dẫn tôi đến một con sông chảy ngang qua khu vườn, nước sông nhìn giống sữa ngọt đang từ từ trôi. Hai bên bờ sông cơ man là người đang ngồi thưởng thức tiệp quanh những bàn xếp đầy các loại thức ăn. Họ là những scherifs, người thuộc dòng họ Mahômêt và các sahabas, bạn đương thời và môm đệ của đấng tiên tri.
Nhìn thấy tôi mọi người chào hỏi rất lịch sự :
- Mời chàng ngồi xuống kia hỡi chàng trai trẻ. Đấng tiên tri Mahômêt đã có nhã ý cho chàng được nhìn tận mắt nơi dành riêng cho các môn đệ và hậu duệ của Người, chàng hãy ngồi xuống đây cùng uống loại rượu của chúng ta, cùng ăn thức ăn của chúng ta.
Tôi ngồi xuống cạnh người dẫn đường. Ông ta đưa cho tôi một miếng bánh mì ngon tuyệt vời, rồi tiếp tôi một món cá, vừa nói « Chàng hãy nếm thứ món cá này, rồi cho tôi biết có bao giờ ăn loại cá ngon hơn thế này chưa ». Quả là tôi chưa bao giờ được nếm món cá tuyệt với đến thế. Tiếp đó, ông múc nước dưới sông mời tôi uống, tôi cảm thấy nước sông có hương vị giống loại rượu nho kỳ thú nhất.
Sau bữa ăn, người dẫn đường đưa tôi đến một thảm cỏ nơi có hơn nghìn thiếu nữ đẹp tụ hội. Nhiều cô ca hát nhiều cô ngồi đàn, và nhiều cô ca khác nữa nắm tay nhau nhảy múa một vũ điệu vòng tròn. Trang phục các cô rất sang trọng, song nhan sắc các cô còn muôn vận lần vượt trội tất cả ngọc ngà trâu báu đeo trên người. Tôi thấy cô nào cũng xinh đẹp. Không thể chọn một cô nào sinh đẹp hơn các cô khác. Và tất cả các cô đều có vẻ thông minh trong ánh mắt của họ, tuyệt nhiên không hề gợn một thoáng ghen tị nào. Người hướng dẫn bảo tôi :
- Trước mắt chàng là các tiên nữ huaris. Đấy là những nàng tiên là nên hạnh phúc của scherifs và các sahabas. Chàng chỉ có thể ngắm nhìn họ từ xa không được phép tới gần, bởi chàng chưa được Tử thần đón ra khỏi nơi trần thế.
Tôi đã đưa mắt hồi lâu quang cảnh trên thảm có ấy, rồi theo người dẫn đường đến một cái động ở cuối khu vườn. Ông nói :
- Thông thường tôi sống ở đây, người kị sĩ không có dâu cằm chính là nhà tiên tri Êli. Vị ấy ở cuối vườn kia. Tôi là nhà tiên tri Khêđe. Động này là nhà tôi. Nếu chàng thích thì chàng có thể ở lại đây cùng với tôi. Chúng ta có thể cùng nhau đọc kinh cầu nguyện, chúng ta sẽ cùng nhau thưởng thức các lạc thú cõi vĩnh hằng, ở trái đất không thể sánh được. Nơi đây quanh năm thời tiết không thay đổi. Chỗ nào khí hậu cũng ôn hòa, mùa nào cũng là mua xuân vĩnh viễn. Nơi đây không có đêm tối, cảnh vật thường xuyên được rọi chiếu ánh sáng dịu mát và tinh khiết của ban ngày.
Nhận lời nhà tiên tri Khêđe, tôi ở lại làm bạn ông mấy năm. Nhưng cho dù nơi ấy vô vàn lạc thú, tôi vẫn chàn. Lòng vẫn tưởng nhớ khôn nguôi nàng Canzat, tôi hiểu ra mình còn nặng nợ trần gian. Đau đáu thương nhớ nàng, tôi không sao thanh thản. tôi dù có sở hữu tất cả tiên nữ sinh đẹp kia, vẫn chẳng bao giờ quên được nàng Canzat. Nhà tiên tri Khêđe nhận ra nỗi buồn của tôi. Ông bảo :
- Tôi thấy chàng muốn trở về Basra. bởi mọi thú lạc trong khu vườn này chưa đủ mạnh để giữ chân chàng lại, ta sẽ làm cho chàng được thỏa ước nguyện của chàng ngay trong chốc lát.
Vừa nói nhà tiên tri vừa ngước nhìn lên trời. Thấy một đám mây bay ngang qua, ông bảo mây dừng lại, hỏi mây bay về đâu. Đám mây, hay đúng hơn là một vị thần linh đang cưỡi mây, hỏi lại :
- Trình đấng tiên tri vĩ đại, tôi đang cưỡi mây bay sang Trung Quốc, ngày có lệnh gì muốn truyền bảo ?
- Thần sang bên ấy làm việc tốt lành hay trừng phạt ai ?- Nhà tiên tri lại hỏi.
- Thưa định làm việc tốt lành.
- Vậy thần hãy tiếp tục hành trình- nhà tiên tri Khêđe nói- ta chưa cần đến ông.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI TÁM.
Lát sau, một đám mây khác bay qua. Nhà tiên tri lại hỏi y như lần trước. Đám mây trả lời đang đi đến Batđa làm việc thiện. Nhà tiên tri bảo :
- Nếu vậy ta muốn thần giúp một việc. Thần hãy mang giúp tìn đố Hồi giáo này sang thành phố Basra, và hãy cho chàng xuống trước cổng nhà chàng.
Thần cưỡi mây đồng ý. Tôi cảm ơn nhà tiên tri Khêđe về tầm lòng phúc đức đối với mình, xin ông hãy luôn cầu nguyện cho, rồi cùng vị thần ấy cưỡi mây lên đường. Trước khi tôi khởi hành, nhà tiên tri còn dạy cho tôi câu thần chú, khuyên tôi luôn miệng niệm dọc đường. Câu nguyện này sẽ giúp tôi từ nay cho đến hết đời, ngăn không cho kẻ thù rắp ranh làm hại, tránh cơn thịnh nộ của đấng quân vương, cũng như phòng ngừa tất cả mọi tai họa hiểm nghèo.
Dọc đường tôi đọc một trăm lần câu thần chú, chỉ để thuộc lòng chứ không phải vì nghi ngại vị thần linh đang mang tôi đi. Ông ta là một hảo thần, tôi sẽ sai nếu nghi ngờ lòng tốt của ông. Chỉ trong vòng thời gian ba bốn tiếng đồng hồ, ông đã mang tôi về Basra, đến ngay trước cổng nhà tôi. Lúc này đang đêm. Tôi đập cửa một người cầm cây nến ra mở cổng. Nhìn thấy mặt tôi ông ta đóng sầm ngay cổng lại, hỏi tôi là ai, tôi có việc gì cần. Tôi bảo tôi là chủ ngôi nhà này, và lệnh cho anh hãy mau chóng mở cổng ra.
Nghe tôi bao vậy, anh gia nhân đi tìm vợ tôi báo cho biết, và chính nàng Canzat thân hành ra mở cổng. Nhưng trông thấy tôi nàng không hề biểu lộ sôi nổi mừng vui như người vợ gặp lại chồng đi xa lâu ngày trờ về, lại còn thét lên một tiếng kinh sợ rồi lật đật quay vào bên trong. Tôi liên lớn tiếng :
- Sao ? Tại sao Canzat hoảng hốt khi nhìn thấy ta ? Tại sao nàng không nhận ra ta ? Ta thay đổi đến thế sao ? Hãy mang chú Hua đến đây cho ta !- tôi quát- Ta muốn nói chuyện với chú ấy. Chú Hua xuất hiện ngay cùng với một chàng trai tôi không quen. Chú đên gần tôi, chăm chú nhìn hồi lâu rồi nói không nhận ra tôi. Chú còn thêm :
- Anh Abunphuari không giống ông chút nào. Anh ấy đẹp trai lắm, còn ông quá xấu xí. Anh ấy béo tốt còn ông gầy nhom chẳng khác một bộ xương, Thôi, ông chớ làm giả anh ấy nữa, ông không thể lừa dồi chúng tôi đâu. Mặc dù chúng tôi xa cách anh ấy bảy năm trời, chúng tôi làm sao quên được nét mặt anh ấy. Chúng tôi biết chắc anh ấy bỏ mình trong chuyến đi Gôncông.
Tôi khá ngạc nhiên khi nghe lời nói ấy. Tôi hiểu con người mình không thể không thay đổi, nhưng không thể thay đổi đến mức em trai không nhận ra mình. Tôi liền nói với vợ tôi- nàng yên tâm vì sự có mặt của chú Hua cùng người nô lệ đang đứng nghe chuyện, đã quay trở lại bên cổng :
- Thế nào, hỡi em Camzat, em không nhận ra Abinphauari, người chồng em từng yêu quý xiết bao ? Người chồng mặc dù phải trải qua bao bất hạnh, vẫn luôn một lòng một dạ nhớ yêu em ? Ôi số phận tôi mới đáng thương làm sao ? Ta đâu ngơ được em đón tiếp ta như vậy ngày ta trở về ? Ta còn sống trên trái đất này làm gì ? Công lao ta nôn nóng chờ đợi xiết bao để nhìn lại xem, nay được trả công như thế này sao ?
- Ông có giọng nói giống Abunphauari lắm,- nàng Canzat đầy xúc động bảo tôi, - Mặc dù nét mặt ông hoàn toàn không giống anh ấy, tôi vẫn không thể giọng ông nói mà không cảm thấy bồi hồi. Nhưng nếu quả thật ông là chông của tôi, hãy nói rõ tại sao ông thay đôi đến vậy so với ngày từ dã thành phố Basra ? Mấy năm qua, ông lưu lạc nhưng nơi đâu, những gì đã xảy ra trong đời ông, khiền cho con người ông thay đổi đến mức này ?
Vậy là tôi thuật lại cho họ chuyến đi của tôi, không bỏ qua chi tiết đặc biệt nào. Tôi kể xong chàng trai trẻ tuổi ấy nói với tôi :
- Ông là một kẻ gian dối, ông bịa ra câu chuyện lố bịch ấy để gây trở ngại cho hạnh phúc của tôi. Nhưng ông nhầm rồi, ông chớ có hi vọng đạt được mưu đồ. Bởi tôi vừa làm lễ cưới nàng Canzat hôm nay, tôi sẽ làm chồng của nàng.
Câu nói sau làm tôi giận điên lên. Tôi quắc mắt nhìn nàng Canzat và chú Hua. Hai người đếu có vẻ lo lắng, buồn rầu. Tôi kêu to : « Làm sao có chuyện như thế được nhỉ ? Ta vẫn hằng tin nàng Canzat luôn luôn chung thủy như ta, làm sao nang Canzat có thế có người chồng nào khác ngoài ta ? »
Tôi định nói tiếp nữa, song một nỗi xúc động đột ngột trào lên chạn nhang học, khiến tôi không thốt lên được lời nào nữa.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI CHÍN.
Suốt đêm hôm ấy, chàng trai trẻ kia và tôi tranh cãi với nhau. Tôi tìm cách chứng minh tôi là Abunphauari, anh chàng dừng như cang tin chắc hơn điều ngược lại. Về phần nàng Canzat và chú Hua, hai người chỉ lặng im đưa mắt nhin nhau, trong ánh mắt có họ không dấu được vẻ hổ thẹn. Trời vừa sáng cả bốn chúng tôi kéo
nhau đến dinh quan chánh án.
- Bẩm quan lớn – chàng trai trẻ nói – ngày hôm qua ngài vừa làm thủ tục cho tôi kết hôn cùng nàng Canzat, nhưng cuộc hôn nhân không thực hiện được, bởi bị một con người xa lạ đang đứng trước mặt ngài đây đến quấy phá. Ông ta cứ khăng khăng bảo mình là chồng bà này, tên ông ta là Abunphauari.
Viên chánh án lắc đầu, nói ai chứ ông Abunphauari thì ông có quen, người này không giống ông kia chút nào – Rồi hỏi nàng Canzat:
- Thưa bà, bà nghĩ sao về người này? Bà có tin đó là ông Abunphauari chồng của bà hay không?
- Bẩm quan lớn – nàng đáp – cứ như mắt tôi nhìn thì đây không phải là con người ông, cứ như giọng tôi nghe thì đây lại là giọng của ông ấy.
Tôi vội thưa với quan chánh án:
- Hỡi vị quan toà công minh của những người Hồi giáo, cúi xin ngài hãy chú ý nghe lời tôi thưa đây. Xin ngài chớ phán quyết vội vàng, e ngài có thể tuyên một bản án không công bằng. Nếu người tôi thay đổi, ấy có lẽ do hệ qủa những chuyện xảy ra với tôi gần đây nhất. Do một thời gian tôi sống dưới âm ti, cho nên mới có sự thay đổi dường này.
- Ông nói chi lạ lùng vậy? – Viên chánh án kêu lên – một người trần có thể sống dưới âm ti ư?
- Chắc chắn có – tôi đáp – Nếu ngài vui lòng nghe, tôi xin thuật lại hầu ngài những việc đã xảy ra.
Chàng trai trẻ nghe đến đây, vội chen vào thưa với viên chánh án:
- Bẩm quan lớn, ông này đã có sẵn trong đầu một câu chuyện hoang đường. Rồi ông ấy sẽ nói ra với ngài đủ điều kỳ diệu, ngài chẳng thể nào tin ông ta được đâu.
- Hãy im đi – Đến lượt viên chánh án ngắt lời y – ta muốn nghe. Ông hãy nói đi, ta nghe – ông quay sang bảo tôi – Bảo đảm ta sẽ xét xử công minh.
Tôi lại bắt đầu kể chuyện, từ khi từ giã thành phố Basra cho đến ngày trở về. Nghe xong, viên chánh án nhìn nàng Canzat, chú Hua và chàng trai trẻ:
- Ta thấy công việc này quá hệ trọng, ta không thể tự quyết định một mình. Những chuyện ông này kể quá khác thường, có thể cho ông ấy dối trá, song biết đâu ông nói đúng sự thật. Đó chính là điều cần làm rõ. Tất cả bốn người phải sang tận thánh địa Mêđin, thưa với Aly Ben Aly Talep, con rể vị tiên tri Môhamét, và hoàng đế Oma, đấng thống lĩnh các tín đồ. Việc này đáng trình để hai vị ấy biết, rồi tự các vị sẽ phán quyết gian ngay.
Quan chánh án quyết định vậy. Bốn chúng tôi: nàng Canzat, chú Hua, chàng trai trẻ và tôi, đành kéo nhau tới cung yết kiến Đấng thống lĩnh các tín đồ. Nghe tôi thuật xong câu chuyện, hoàng đế phán:
- Những điều ông vừa trình ta nghe quá ư đặc biệt, ta không thể nào tin. Ngay tức khắc chúng ta phải đến khu vườn của Đấng tiên tri, ta sẽ thân hành cùng đi với bốn người. Vị con rể của Đấng tiên tri sẽ phán quyết, chúng ta nên nghĩ sao về câu chuyện kì lạ này.
Cùng với hoàng đế Oma, chúng tôi sang vườn Rauzê. Lúc ấy, ngài Aly đang cầu nguyện bên cạnh ngôi mộ của Đấng tiên tri Môhamét, hoàng đế nói:
- Thưa ngài, ta đưa đến trình ngài một người vừa kể những chuyện hoang đường, khiến ta không biết thế nào tin.
Ngài Aly hỏi tôi tên gì. Vừa nghe đáp, tôi tên là Abunphauari, ngài đã sôi nổi thốt lên:
- Hỡi Đấng tiên tri của thượng đế! Thưa nhạc phụ Môhamét của tôi! Ngài dạy đúng. Tâu bệ hạ – ông quay sang nói với hoàng đế – xin ngài vui lòng cho phép tôi nghe hết câu chuyện của người này hẵng. Ông ta không phải là một người nói dối. Bởi Đức Môhamét đã báo tin cho tôi về người ấy từ lâu. Ngài còn cho biết sẽ có một người tên là Abunphauari một ngày kia sẽ đến tận vườn Rauzê và sẽ kể cho tôi nghe những câu chuyện rất chân thực mà rất lạ kỳ. Ngày ấy cuối cùng hôm nay đã đến, ông Abunphauari đây sắp đáp ứng hiếu kỳ của tôi.
Sau khi thốt lên như vậy, ngài xin Đấng thống lĩnh các tín đồ cho phép tôi được trình bày. Hoàng đế phán:
- Vậy hãy cho anh được kể hết ra, ta vui lòng nghe thêm lần nữa.
Thế là tôi bắt đầu kể về những ngày tôi sống dưới âm ti. Đặc biệt tôi nói nhiều về các vị thần linh theo Hồi giáo, và thưa lại lời vua các vị thần ấy nhờ tôi tâu với Đấng thống lĩnh các tín đồ và ngài con rể của Đấng tiên tri. Cả hai vị, hoàng đế Oman và ngài Aly đều thú vị về những điều tôi nói – hai vị ôm hôn tôi cho tôi là con người hạnh phúc nhất trong tất cả con người đang sống ở thế gian, bởi tôi chưa qua đời thế mà đã có thể nhìn thấy nơi yên nghỉ dành riêng cho các họ hàng và bè bạn của Đức Môhamét sau khi họ bước sang cõi vĩnh hằng.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM CHÍN MƯƠI.
Kết qủa chuyến đi của tôi đến thánh địa Mêđin là hoàng đế Oman tin chắc là tôi đúng là Abunphauari. Vua đuổi chàng trai trẻ về, và quyết định trả lại cho tôi nàng Canzát. Tiếp đó, ngài sai xuất trong kho của ngài ra hai nghìn đồng xơcanh vàng ban cho tôi, cùng với một trăm tên nô lệ và một trăm con lạc đà.
Tôi trở về thành phố Basra, tậu một dinh cơ tráng lệ. Tôi sống ở đấy với nàng Canzát như một người tình luôn luôn chung thủy. Tôi không hề trách nàng sao không đủ kiên nhẫn chờ đợi tôi mà vội đi lấy chồng. Đúng là nàng tỏ ra rất hối tiếc về chuyện ấy, và tình cảnh nàng được thể tất cho. Trong thời gian tôi vắng nhà, chú Hua không biết cách quản lý tài sản tôi để lại, hay đúng hơn, chú đã tiêu pha hết sạch sành sanh, thành ra muốn tránh trước cảnh quẫn bách, hơn nữa, cũng muốn tìm cho nàng Canzát một số phận êm đềm hơn, chú đã bày vẽ cho nàng việc nên nhận lời làm vợ một người bạn giàu có của chú ấy.
Tôi cũng chẳng xử sự khắt khe với chú ấy làm chi. Tôi quên đi những chuyện đã qua, và mọi người trong gia đình cùng nhau sống thương yêu đầm ấm. Ngoài những của cải hoàng đế Oman đã ban cho, đủ để sống cuộc sống phong lưu nhàn hạ, tôi còn may mắn phát hiện ra một kho tàng giấu trong dinh cơ tôi vừa tậu. Nhờ vậy, tôi có một khoản lợi tức rất lớn, cho dù sống xa hoa đến mấy cũng chẳng bao giờ lo tiêu pha hết.